Tìm hiểu về nguồn gốc các triều đại Lý và Trần (Bài 3)

 Tìm hiểu về nguồn gốc các triều đại Lý và Trần (Bài 3)

Sự công nhận thời Hùng Vương là gốc của mình của triều Lý – Trần:

 

Minh họa : Tượng Vua Hùng trong Đường Hầm Diêu Khắc Dalat

Triều Trần cũng công nhận về thời kỳ Hùng Vương của người Việt, với những ghi chép về văn bia thời nhà Trần có ghi về đền thờ gốc là đài Kính Thiên được xây dựng từ thời Hùng Vương thứ 6, các vị vua nhà Lý, nhà Trần đã biết tới sự tích này, phong thần và cho tu sửa đền thần, ban tặng sắc phong.


Văn bia được tìm thấy tại xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, được khắc vào thời Trần, do Hàn lâm học sĩ Trương Hán Siêu soạn năm 1312 và được khắc lại vào đợt trùng tu năm 1816. Văn bia chép như sau: 
“石碑之立,以錄事跡,以徵功德云耳。 想初 天神王祠下,粵自雄王六世,朱鳶部雒將奉造乾巽向 敬天臺,每歲初春,恭行奉 天大禮。如有水旱災變,民間祈禱,輒靈應焉。逮夫先朝 順天七年春,帝省覽山川,拜封 當境城隍至明大王。厥後,歷代諸帝有修造 ○(6)神祠,有封贈 神敕。蕩蕩乎,巍巍乎,一等威靈矣 仰今 聖帝陛下,位儼九重,躬端萬化。為子孫長久之計,追思夙願,以顯神功 ○ 詔攽錢參百緡,特差修理。仰見工完,鳩集式示規程。此億萬年之功德也,有若是夫。且修文德以恢平治之功;以造神祠,以展敬誠之意。于以衍宗社無疆之福,乃編錄古今事跡詳勒于珉,以垂萬世。” 
 – “Bia đá được dựng lên là để ghi chép sự tích và phô trương công đức vậy. Nhớ xưa, ngôi đền thờ vị thiên thần giáng xuống nước Việt này [là] đài Kính Thiên do Lạc tướng bộ Chu Diên đời Hùng Vương thứ 6 vâng mệnh dựng lên (hướng Tây bắc – Đông nam), hàng năm vào đầu xuân tiến hành đại lễ tế trời, nếu như có nạn lụt, hạn hán hay hỏa hoạn, nhân dân đến cầu đảo là luôn luôn linh ứng. Vua triều trước năm Thuận Thiên thứ 7 (1017) đi thăm cảnh núi sông [đến đây] phong hiệu cho thần là “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương”. Từ đó về sau, vua các triều đều có tu sửa đền thần và ban tặng sắc phong. Mênh mông thay, cao cả thay, uy linh bậc nhất vậy. Kính nay, thánh đế bệ hạ ngôi ở cửu trùng, chở che muôn vật, vì con cháu mà tính kế lâu dài, nhớ lời nguyền cũ mà làm rạng rỡ công lao của thần. Hạ chiếu ban 300 quan tiền, đặc sai tu sửa ngôi đền, tới khi mọi việc hoàn thành, thực là tụ tập đủ mọi qui thức. Qui mô này chính là công đức của ức vạn năm. Sở dĩ làm vậy chính là tu sửa văn đức để khôi phục cái công bình trị, xây dựng đền thần nhằm thể hiện cái ý kính thành. Nhờ đó mà kéo dài được cái phúc vô hạn của tông xã, cho nên ghi chép sự tích xưa nay khắc rõ ràng vào đá cứng để lưu truyền muôn đời.”.

Những ghi chép này đã công nhận về sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương ở các triều đại Lý – Trần, nó cũng cho chúng ta thấy được một sự trân trọng đặc biệt với di sản từ thời Hùng Vương được truyền lại của các vị vua các triều Lý – Trần, nếu đây là các vị vua gốc Hoa Hạ, chắc chắn họ không phải nhọc công bảo tồn những di sản của dân tộc Việt như vậy.

4. Về việc dẫn những tư liệu lịch sử Trung Quốc:

Trong các văn bản như Chiếu Dời Đô, Hịch Tướng Sĩ của các triều Lý – Trần, thì Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đã dẫn nhiều những chi tiết lịch sử của Trung Quốc, tuy nhiên, đây không phải là một cơ sở để suy diễn và kết luận về nguồn gốc dân tộc. Văn hóa Việt trong thời kỳ tự chủ, bên cạnh sự lưu truyền ý thức văn hóa cốt lõi của dân tộc, thì người Việt cũng đã chịu những ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ thông qua những chính sách áp đặt, đồng hóa, trong đó có việc học các sách kinh điển của phương Bắc.

Các sách kinh điển, bao gồm cả lịch sử của phương Bắc được sử dụng để giáo dục cho các tầng lớp hoàng tộc, quan lại, việc này thì không chỉ có ở người Việt, mà còn có ở các nền văn hóa khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Nhật Bản, Triều Tiên, tầng lớp hoàng tộc, quý tộc của họ cũng học các sách kinh điển của Nho giáo, cũng học lịch sử Trung Hoa, vậy nên nếu tra trong các ghi chép lịch sử hay các tài liệu của họ, chúng ta có lẽ cũng sẽ thấy các chi tiết lịch sử Trung Hoa được nhắc tới.

Vì vậy, đây hoàn toàn không phải là một cơ sở để xác định, nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc. Đơn thuần nó chỉ là một sự ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ tới văn hóa Việt, là một điều tất yếu khi văn hóa Trung Hoa đã có một quá trình dài ảnh hưởng thông qua sự cưỡng bức (với các chính sách đồng hóa) và sự tiếp nhận tự nhiên của người Việt sau đó, với sự phát triển vượt trội của nền văn hóa này so với văn hóa Việt nói riêng, hay văn hóa trong vùng Đông Á nói chung, thì việc học hỏi là cần thiết và cũng không thể tránh khỏi trong thực tế lịch sử của thời kỳ đó.

5. Vấn đề Cao Biền xây thành Đại La và xây dựng nhà cửa:


Việc Cao Biền xây thành Đại La, hay cho làm nhà cửa từ ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã làm cơ sở cho một số người cho rằng Cao Biền đã cho người Hán Hoa Nam xuống miền Bắc Việt Nam, xây dựng nhà cửa trong thành Đại La cho di dân từ miền Bắc xuống. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ dẫn trực tiếp các ghi chép lịch sử, phân tích những yếu tố phi lý mà giả thuyết này đã đề xuất.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước (khoảng 6,6 km vuông), thân thành cao trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian.

Như vậy thì Cao Biền đã xây dựng La Thành, với diện tích khoảng 6,6km vuông theo cách tính hiện đại, trong ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, thì Cao Biền đã “cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian”. Con số 40 vạn gian, nếu tính mỗi nhà có khoảng 4 gian, thì 40 vạn gian là khoảng 10 vạn nhà, mỗi gia đình có khoảng 4-6 người, tính trung bình là 5 người một hộ, thì 40 vạn gian là khoảng hơn 50 vạn nhân khẩu! 50 vạn nhân khẩu trong một diện tích hơn 6,6km vuông! Không cần là một nhà nghiên cứu cũng có thể thấy được sự phi lý trong con số này. Dân số toàn bộ Việt Nam thời tự chủ cũng chỉ khoảng 3-4 triệu người. Dân số Hà Nội tới thời Pháp thuộc (1918) cũng chỉ là 7 vạn người. Chưa kể tới việc Cao Biền lấy nhân công, kinh tế ở đâu để xây dựng nên 40 vạn gian nhà? Đây là một con số xây dựng nên cả một quốc gia, chứ không còn là một kinh thành đơn thuần nữa. Vì vậy, những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư về Cao Biền “làm nhà cửa hơn 40 vạn gian” chắc chắn không có cơ sở tin cậy. Sự kiện Cao Biền xây thành Đại La và xây dựng nhà cửa cũng đã được Đại Việt sử lược chép lại, với con số thực tế hơn nhiều so với Đại Việt sử ký toàn thư.

Đại Việt sử lược chép: “Cao Biền đắp La Thành chu vi dài 1980 trượng linh năm thước, cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có nữ tường cao 5 thước 5 tấc. Địch lâu 55 sở. Môn lâu 5 cái. Ủng môn (cửa tò vò) 6 cái. Ngòi nước 3 cái. Đường bộ (?) 34 đường lại đắp chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao một trượng 5 thước. Chân đê rộng 3 trượng xây cất nhà cửa hơn 5000 căn.” 

Đại Việt sử lược cũng ghi diện tích thành Đại La tương tự với Đại Việt sử ký toàn thư, cũng khoảng 6,6km vuông. Sách ghi con số nhà cửa được xây dựng là 5000 căn, nhưng khi chúng tôi tra sách gốc thì sách lại chép là gian 間 giống như Đại Việt sử ký toàn thư, vậy có nghĩa đây là 5000 gian, trung bình một nhà có 4 gian và 5 người một nhà, thì 5000 gian là khoảng hơn 6000 người, đây là một con số thực tế hơn nhiều so với Đại Việt sử ký toàn thư.

Việc Cao Biền xây dựng thành Đại La cũng không có ý nghĩa gì trong việc tìm hiểu về nguồn gốc người Việt. Trị sở đô hộ của các triều đại Hoa Hạ vẫn thường được xây mới, củng cố qua các giai đoạn, nên việc xây thành Đại La cũng là một sự kiện bình thường trong bối cảnh lịch sử thời Bắc thuộc, đặc biệt là sau khi Đại La bị tàn phá bởi Nam Chiếu, nên không thể cho rằng Cao Biền cho xây thành Đại La để đón di dân từ Hoa Nam xuống. Bên cạnh đó, thì các ghi chép lịch sử cũng hoàn toàn không nhắc về một cuộc di cư lớn nào của người Hán Hoa Nam xuống vùng miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này hay bất kỳ giai đoạn nào trong xuyên suốt lịch sử, nên không đủ cơ sở để cho rằng có một cuộc di cư của cư dân Hoa Nam xuống Việt Nam. Việc Lý Công Uẩn dời đô về thành Đại La, không nhất thiết là kế thừa Cao Biền, và nó cũng không có ý nghĩa kết luận Lý Công Uẩn là gốc Hoa Hạ. Đơn giản, khu vực thành Đại La được xây là nơi có địa thế tốt nhất để xây dựng kinh đô, Lý Công Uẩn nhận thấy điều đó, và chỉ nhắc tới sự kiện Cao Biền xây thành Đại La trong Chiếu Dời Đô như một cách tiếp cận, lấy đó làm cớ hỗ trợ cho việc dời đô của mình mà thôi.

6. Kết luận:

Như vậy, thì các tài liệu lịch sử đã cho thấy quan điểm rằng các triều đại đế vương Việt Nam: Lý và Trần có nguồn gốc “từ Trung Quốc” là hoàn toàn không có cơ sở. Các ghi chép lịch sử đã cho thấy triều Lý có nguồn gốc từ Việt Nam, triều Trần có nguồn gốc từ Mân Việt hoặc Quế Lâm, đây là các vùng đất tộc Việt cũ, không phải lãnh thổ của người Hoa Hạ, họ mới chiếm được các vùng đất này trong khoảng hơn 2000 năm nay. Các triều đại này cũng có nền tảng văn hóa chính là văn hóa tộc Việt, duy trì những đặc trưng văn hóa quan trọng nhất của cộng đồng tộc Việt nói chung và dân tộc Việt nói riêng. Tuy lịch sử đã không còn, nhưng tài liệu văn bia đã cho thấy họ cũng công nhận triều Hùng Vương là nguồn cội của dân tộc Việt. Vì vậy, những suy diễn về nguồn gốc dân tộc Việt dựa trên sự xuyên tạc về nguồn gốc các triều Lý – Trần là hoàn toàn không có căn cứ.

Xem Bài 1                Xem Bài 2