Gia Định thành hay thành Gia Định?
Tổng trấn Gia Định thành hay thành Gia Định? |
Tên Gia Định được sách Đại Nam thực lục nhắc đến lần đầu vào tháng 2 âm lịch (AL) năm 1698, khi chúa Nguyễn Phúc Chu “bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính (tức Nguyễn Hữu Cảnh - LN) kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay - LN), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng là phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay - LN)…” (Đại Nam thực lục tập 1, NXB Giáo dục, 2002, trang 111).
Như vậy, vào cuối thế kỷ 17, Gia Định là một phủ tân lập bao gồm vùng đất Biên Hòa và Sài Gòn. Đến đầu thập niên 1770, cuộc chiến giữa nhà Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn bùng phát, vùng đất Gia Định trở thành bãi chiến trường và hai bên thay nhau làm chủ cho đến năm 1783, ưu thế hoàn toàn thuộc về nhà Tây Sơn.
Một hình ảnh xưa trước cổng lăng Tả quân Lê Văn Duyệt
(Lăng Ông Bà Chiểu)
Tuy nhiên, sau một thời gian khá dài nương náu trên đất Xiêm, tháng 8 AL năm 1788, chúa Nguyễn Ánh và binh tướng mấy trăm người đã quay về đất Gia Định, được sự ủng hộ của người dân, lấy lại Gia Định từ tay nhà Tây Sơn, và làm chủ vĩnh viễn vùng đất này. Tháng 3 AL 1790, với sự giúp sức tự nguyện của một số người Pháp, chúa Nguyễn nhờ viên đại tá công binh Olivier de Puymanel đắp thành Gia Định.
Đây là thành trì kiên cố đầu tiên trên vùng đất Sài Gòn - Gia Định, được mô phỏng kiến trúc Vauban của phương Tây, kết hợp với yếu tố dịch lý của phương Đông, mở ra 8 cửa theo kiểu Bát quái (Đại Nam thực lục - sđd, trang 257). Cũng vì thế, người đương thời quen gọi là thành Bát quái. Năm 1808, vua Gia Long đổi tên dinh Phiên Trấn thành trấn Phiên An, nên từ đó, thành Gia Định được gọi là thành Phiên An. Tên này tồn tại đến suốt cuộc nổi dậy của binh lính thành Phiên An dưới quyền con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt là Nguyễn Hựu Khôi (sau đổi là Lê Văn Khôi). Tháng 7 AL 1835, quân triều đình chiếm lại thành Phiên An từ tay thủ hạ của Lê Văn Khôi (đã mất từ đầu năm 1834).
Tháng 10 AL 1836, sau khi phá hủy hoàn toàn thành Phiên An, vua Minh Mạng cho xây một thành mới, nhỏ hơn, trên nền của thành cũ, lấy tên là thành Gia Định. Thành này tồn tại 23 năm, đến đầu năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành và phá hủy toàn bộ.
Gia Định thành là gì ?
Hoàn toàn khác với thành Gia Định, Gia Định thành không phải là thành trì tại một địa phương, mà là một tổ chức hành chánh đặc biệt chỉ có dưới thời vua Gia Long (1802 - 1820) và vua Minh Mạng (1820 - 1841). Sau khi thống nhất lãnh thổ, vua Gia Long đã đổi vùng đất Bắc Hà thành Bắc thành gồm 11 trấn nội, ngoại và tháng 9 AL 1802, giao cho Tiền quân Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng trấn Bắc thành, quyền uy như một “phó vương”, đúng như cách diễn đạt bằng tiếng Pháp là “vice-roi” của các cây bút phương Tây khi nói đến chức chưởng này.
Tương tự như Bắc thành, vùng Gia Định cũ được gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn: Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh (sau là Vĩnh Long) và Hà Tiên. Năm 1808, Nguyễn Văn Nhơn được cử làm Tổng trấn Gia Định thành, 4 năm sau, Lê Văn Duyệt được cử thay thế ông Nhơn. Vào thời kỳ này, Bắc thành và Gia Định thành là 2 tổ chức đặc biệt, như 2 triều đình thu nhỏ với 4 tào chính: tào Hộ, tào Binh, tào Hình và tào Công, tương ứng với 4 bộ trong triều, mỗi tào do một quan lại hàng tham tri (tòng nhị phẩm, như thứ trưởng bộ ngày nay) phụ trách.
Xem như thế, chúng ta thấy rõ rằng “thành Gia Định” và “Gia Định thành” là 2 khái niệm khác nhau hoàn toàn. Trong ngôn ngữ lịch sử suốt triều Nguyễn, cũng không hề có chức danh “tổng trấn thành”; đứng đầu các thành trì lớn là một võ quan chức đề đốc, hàm tòng nhị phẩm, các thành nhỏ ở địa phương do quan lãnh binh (chánh tam phẩm) chịu trách nhiệm.
Đáng tiếc là trong bản dịch bộ Đại Nam thực lục, tập 1 và 2, do NXB Giáo dục ấn hành (2002 và 2004), cụm từ Gia Định thành đã được Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên âm một cách máy móc là “thành Gia Định”, Tả quân Lê Văn Duyệt trở thành “Tổng trấn thành Gia Định”, sai lạc hẳn ý nghĩa đúng của tổ chức hành chánh này.