Cuộc đời trắc trở của hai hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng triều Nguyễn

Cuộc đời trắc trở của hai hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng triều Nguyễn 

 Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi gây dựng cơ đồ,
còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết trong cô đơn nơi đất khách quê người.



Triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng được sắc phong khi còn sống. Đó là Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan, vợ vua Gia Long và Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại. Cuộc đời hai hoàng hậu cùng tên Lan có nhiều trắc trở. Cho đến nay, sử sách cũng chưa lý giải vì sao từ thời vua Minh Mạng trở đi đều để trống ngôi vị chủ hậu cung, chỉ ban tước cao nhất là hoàng quý phi, giúp hoàng thái hậu trông coi lương thực, chỉnh tề công việc bên trong.

Người vợ đồng cam cộng khổ với vua Gia Long

Thừa Thiên Cao hoàng hậu (1762-1814) tên thật là Tống Thị Lan, là vợ đầu tiên của vua Gia Long, bôn ba khắp nơi theo ông gây dựng lại cơ đồ chúa Nguyễn. Năm 1778, bà theo cha là Quý quốc công Tống Phúc Khuông cùng gia quyến vào Gia Định. Khi bà 18 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh đã đích thân đem lễ vật đến hỏi cưới và lập làm nguyên phi. Bà là người cẩn trọng, có phép tắc lễ độ nên được gia đình chồng yêu quý.

Khi bị nhà Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Nguyễn Phúc Ánh vừa cầu cứu quân Xiêm La, lại đem con trai 3 tuổi là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh giao cho giáo sĩ Bá Đa Lộc làm con tin, sang Pháp hòng cầu thêm ngoại viện. Chia ly chẳng biết ngày đoàn tụ, ông đã chặt đôi nén vàng, giữ một nửa còn một nửa đưa cho vợ và nói “Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, phi hãy phụng dưỡng quốc mẫu (mẹ chồng). Chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin”. Bà nuốt nước mắt, nhận trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng, chăm nom gia tộc suốt thời gian đó.

Cầu cứu được 50 nghìn viện binh Xiêm La nhưng Nguyễn Phúc Ánh vẫn bị nhà Tây Sơn đè bẹp. Bà Tống Thị Lan cùng mẹ chồng lánh mình ở đảo Phú Quốc, ngày ngày ngóng đợi tin. Khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo ông để chăm lo mọi việc.

Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đề nghị bà làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử là bà phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao hoàng hậu) còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Phúc Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử Đảm về ở hẳn với bà.

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long. Sau đó một năm, bà được lập làm vương hậu và năm 1806 thì được phong làm hoàng hậu. Vua có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập duy nhất ngôi hậu cho bà. Tiếc rằng hưởng phúc không được bao lâu thì hoàng hậu qua đời năm 1814, thọ 53 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc nên khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Hoàng hậu được hiệp táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song song nhau.

Thừa Thiên Cao hoàng hậu sinh được hai người con trai nhưng đều mất sớm, trước khi vua Gia Long đoạt được sơn hà. Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở, con cháu bà dù thuộc dòng đích (con cả) của vua Gia Long nhưng cũng chịu đắng cay không kém, trầm luân trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị giáng làm thường dân.

Con trai đầu của bà là hoàng tử Cảnh khi 3 tuổi đã theo Bá Đa Lộc làm con tin, lênh đênh chân trời góc bể, sau này ở ngôi đông cung thái tử chưa được bao lâu thì mắc bệnh đậu mùa rồi mất khi mới 21 tuổi, để lại vợ và hai con trai. Sau này, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai cả của hoàng tử Cảnh lên nối ngôi, mà truyền ngôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.

Dưới thời vua Minh Mạng, con dâu, cháu nội của Thừa Thiên Cao hoàng hậu bị giáng cho tội thông dâm với nhau, người bị dìm nước cho đến chết, người phải giao trả ấn tín, bị giáng làm thứ dân, người bị bệnh chết. Sau chắt nội của bà được phong tước để lo việc thờ phụng Anh Duệ hoàng thái tử (tức hoàng tử Cảnh). Cuộc trầm luân vẫn chưa kết thúc, năm 1836, triều thần tiếp tục nghị tội, buộc dòng dõi của hoàng tử Cảnh bị giáng làm dân thường mới được tạm yên ổn.

Nói về cuộc đời Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tiến sĩ sử học Nguyễn Khắc Thuần nhận xét, việc bắt Nguyễn Phúc Ánh làm tờ giao ước khi nhận Nguyễn Phúc Đảm làm con nuôi là biểu hiện sự cẩn trọng của bà đối với Thuận Thiên Cao hoàng hậu, cũng là cẩn trọng đối với chính người chồng. Tiếc là sự cẩn trọng ấy vẫn chưa đủ. Theo TS Thuần, thời ấy có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, Minh Mạng muốn yên vị trên ngai vàng ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức là thông dâm với mẹ.

“Vua Minh Mạng… từ nhỏ đã được Thừa Thiên Cao hoàng hậu nuôi dưỡng, với hoàng tử Cảnh khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết hại chị dâu, đày đọa các con của anh. Ai đó nói rằng, phàm là hoàng đế thì chẳng thể dung tha dòng trưởng của tộc họ nhà mình. Mức độ đúng sai với ai thì chưa rõ, nhưng với vua Minh Mạng thì chí lý thay”, ông đánh giá.

Cuộc đời vui buồn của hoàng hậu Nam Phương

Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963), vợ vua Bảo Đại, tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, nổi tiếng bởi vẻ đẹp dịu dàng, đức hạnh và tài năng.

Năm 1932, vua Bảo Đại về nước sau 10 năm học ở Pháp. Vị vua trẻ đẹp trai, thích thể thao, săn bắn trở thành người chồng lý tưởng của các cô gái nhà quyền quý. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì người đầu tiên được chọn làm vợ Bảo Đại không phải là bà Nam Phương mà là cô Bạch Yến, con gái ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê Phong Điền (Thừa Thiên- Huế). Cô Yến đã được dạy đàn ca, nghi lễ chuẩn bị tiến cung nhưng cuối cùng không được chọn.

Dưới sự sắp xếp của vợ chồng Charles – nguyên Khâm sứ Trung Kỳ, Bảo Đại gặp gỡ cô Lan xinh đẹp, từng 3 lần đoạt giải hoa hậu Đông Dương, cháu ngoại ông Huyện Sỹ giàu nhất miền Nam thời bấy giờ tại một buổi tiệc ở Đà Lạt. Hoàng đế trẻ bị người con gái mặc áo dài lụa đen, gương mặt thanh thoát không trang điểm cuốn hút. Họ thường gặp lại nhau một cách “bất ngờ” sau lần hội ngộ đầu tiên ấy.

Khi Bảo Đại ngỏ lời cầu hôn, cô Lan đồng ý lấy ông với 3 điều kiện: được tấn phong làm hoàng hậu ngay trong lễ cưới; được giữ nguyên đạo Thiên chúa; các con sinh ra đều được rửa tội, được giữ đạo; cuộc hôn nhân này phải được Tòa thánh La Mã cho phép, hai người giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo.

Cuộc hôn nhân gặp nhiều bàn tán, vấp phải nhiều lễ giáo mấy trăm năm của tiền triều. Nhưng với quyết tâm của ông vua được ăn học bên Tây, hôn lễ vẫn được tổ chức vào ngày 20/3/1934 tại điện Cần Chánh – nơi vua thiết triều. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình, được mặc phẩm phục màu vàng cam – màu sắc chỉ dành riêng cho hoàng đế. Ngay sau lễ cưới, Bảo Đại đã tấn phong cho bà Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu. Tên hiệu Nam Phương có nghĩa là “hương thơm của phương Nam”.

Vua còn sửa nội thất điện Kiến Trung cổ kính thành nơi tân tiến với nhiều tiện nghi như có nhiều phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Là người theo học ở nước ngoài nhiều năm, hoàng hậu Nam Phương giúp chồng ngoại giao, đón tiếp quốc khách, giao thiệp với người Pháp, trong nước làm khuyến học, giúp người nghèo. Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con gồm hoàng thái tử Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương Liên và hoàng tử Bảo Thăng.

Hoàng hậu Nam Phương có một tuổi thanh xuân êm đềm, bước vào cuộc hôn nhân tưởng chừng viên mãn nhưng rồi rạn nứt, bà sống thiếu hạnh phúc những năm cuối đời và chết trong cô đơn nơi đất khách. Tháng 8/1945, vua Bảo Đại thoái vị rồi ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Nam Phương cùng các con dọn ra cung An Định, bên bờ sông An Cựu sống.

Rời bỏ cuộc sống giàu sang của một bà hoàng, bà dốc sức nuôi dạy các con, tham gia góp vàng bạc, vận động người dân Huế gây quỹ cho chính quyền mới. Nhân danh cựu hoàng hậu của nước Việt Nam, bà thay mặt cho 13 triệu phụ nữ Việt Nam gửi thông điệp vận động phụ nữ thế giới tố cáo âm mưu lăm le quay lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.

Dù từng công khai nói trước triều đình là “chống lại tục đa thê của vua chúa Việt Nam” nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn có vô số nhân tình bên ngoài. Chuyện nước, chuyện nhà không vui khiến cựu hoàng hậu và các con qua Pháp sinh sống còn Bảo Đại thì vẫn ở Việt Nam. Năm 1949, không chịu được gian khổ, thử thách của hoàn cảnh, ông quay lại cộng tác với Pháp. Năm 1955, khi lên nắm chính quyền miền Nam, Ngô Đình Diệm đã tịch thu tài sản của gia đình cựu hoàng ở Sài Gòn và cả ở Pháp. Bảo Đại uất ức, bỏ nhà đi săn, theo đuổi nhân tình. Cha con, vợ chồng tan tác khiến bà Nam Phương đau khổ.

Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ tại ngôi làng Chabrignac, một vùng nông thôn nước Pháp. Bảo Đại ít khi về thăm bà, chỉ có vài ba lần và lần nào cũng rất ngắn ngủi. Hoàng hậu Nam Phương qua đời vào ngày 14/9/1963. Hôm đó, bà thấy người mệt mỏi, gọi bác sĩ thì được chẩn đoán viêm họng nhẹ, chỉ cần uống thuốc vài hôm. Nhưng bác sĩ mới đi được vài tiếng thì bà thấy khó thở rồi qua đời ngay trong đêm, khi 49 tuổi. Vị hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn sống không hạnh phúc, mất trong cô đơn, không có người thân bên cạnh ngoài các nàng hầu. Khi đó, các con bà đều học hành, làm việc ở Paris.

Đám tang hoàng hậu Nam Phương được tổ chức ở nhà thờ Chabrignac, có đầy đủ dân làng mến mộ bà. Các con trai, con gái đều về chịu tang mẹ, riêng người chồng Bảo Đại thì không thấy đâu. Bà được an táng ngay cạnh khu mộ thuộc gia đình bá tước De La Besse. Bà bá tước chính là công chúa Như Lý (con gái vua Hàm Nghi) khi biết tin đã chua xót nói “Ở gần nhau hàng 5 năm mà không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời rồi mới biết. Thật tiếc thương”.

Mộ hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đơn sơ, trên bia đá ghi dòng chữ Hán Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng, mặt sau ghi dòng chữ Pháp, dịch Đây là nơi an nghỉ của hoàng hậu An Nam, nhũ danh Maria Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan. Theo ông Nguyễn Đắc Xuân, vì thương mến bà nên người ta đã táng theo những đồ trang sức quý giá. Nhưng việc này đã để lại hậu quả xấu là bọn trộm nhiều lần đào bới để tìm vàng.

Dân làng Chabrignac đã xem mộ hoàng hậu Nam Phương là một trong ba di sản quý của làng.

Cuộc sống lưu đày của vua Hàm Nghi qua lời kể của nữ nhà văn Nga

Ngôi biệt thự này dường như được tạo ra cho hạnh phúc, cho niềm vui, cho cuộc sống. Nhưng khi tôi nhìn vào đôi mắt người chủ góc thiên đường này, tôi đọc thấy nỗi sầu cố quốc lớn lao. Đối với ông, xa quê hương có nghĩa là không có mặt trời và không hề có niềm vui.















Có lẽ nhiều bạn đã đọc cuốn tiểu thuyết cảm động “Hoàng tử bé” của nhà văn Pháp Antoine de Saint-Exupery. Những trang viết về tình yêu và sự cô đơn đáng cho ta ghi nhớ suốt đời. Nhưng có lẽ không nhiều người biết rằng có một câu chuyện về một vị hoàng tử khác, cũng đau đáu thương nhà nhớ nước vì phải sống cô đơn ở xứ người. Quyển sách này ra đời trước Saint-Exupery rất lâu, và đáng tiếc là không nổi tiếng như “Hoàng tử bé”. Tác giả của tác phẩm này là nữ văn sĩ Nga Tatyana Shchepkina-Kupernik.

Tatyana Shchepkina-Kupernik sinh năm 1874, mất năm 1952. Thời trẻ, trước Cách mạng Tháng Mười Nga, bà đã đi nhiều nước trên khắp thế giới. Đầu năm 1902, bà đến Algeria, thuộc địa của Pháp. Khi đó, vua Hàm Nghi đang sống tại nước này. Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn là biểu tượng phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX. Khi phong trào thất bại, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt đưa đi an trí tại Alger.

Trong câu chuyện về nhà vua bị lưu đày, nữ văn sĩ Nga gọi nhân vật của mình là “Hoàng tử Lee Tzong”, vì lý do kiểm duyệt bà không thể viết tên thật của Hoàng đế An Nam. Lần đầu tiên tác phẩm này được công bố tại Moskva năm 1903.

Truyện bắt đầu với cảnh mô tả xứ sở thanh bình, nơi có một chàng hoàng tử tốt bụng sống rất hạnh phúc. Nhưng rồi một buổi sáng định mệnh, chàng và các thần dân được biết rằng phương Tây không chỉ có các học giả lớn và nhà thơ vĩ đại, mà có cả những kẻ cầm súng và đạn dược đến gieo rắc chết chóc và sự hủy diệt. Và cái chết và sự tuyệt vọng đã ập đến vương quốc của chàng. Một lần hoàng tử tỉnh dậy và thấy mình đã là một tù nhân. Chàng bị bắt làm con tin, bị giam lỏng trong tòa biệt thự màu trắng Algeria dưới bầu trời châu Phi. Đại dương mênh mông ngăn cách chàng với quê hương mà cho đến chết Hoàng đế không một lần được gặp lại. Nhưng chàng vẫn sống, — như Shchepkina-Kupernik đã viết trong truyện — và chàng sống với khát vọng sau khi chết sẽ được yên nghỉ tại quê nhà. Niềm hy vọng đó khiến cho đôi mắt đen buồn bã của chàng sáng bừng lên trong chốc lát.

Nhà văn Nga Shchepkina-Kupernik không chỉ kể về chàng hoàng tử bất hạnh. Họ gần như bạn đồng niên, vua Hàm Nghi chỉ hơn nữ văn sĩ Nga hai tuổi. Cả hai đều nói tiếng Pháp rất giỏi. Họ gặp nhau nhiều lần và trở thành bạn bè thân thiết. Shchepkina-Kupernik mô tả diện mạo vua Hàm Nghi: “Làn da của ngài có màu ngà voi cũ, đôi mắt thông thái và rất buồn, bàn tay, bàn chân nhỏ nhắn — tất cả những điều đó khiến bạn nghĩ gì về bức tượng quý, chạm khắc khéo léo bởi bàn tay người nghệ sĩ phương Đông. Nhà vua không chỉ một lần mua chuộc tôi bằng sự giản dị của mình và tính cả tin, khiến ngài trông có vẻ như một đứa trẻ lớn tuổi”.

Trong nhà của người bị lưu đày, nữ văn sĩ Nga chú ý đến bức trướng với câu châm ngôn của Khổng Tử dệt bằng chỉ vàng treo trên tường, những cuộn bản thảo, mực tầu và bút lông trên bàn làm việc, tấm chiếu trải trên sàn. Bà cũng thấy trong phòng có các nhạc cụ Việt Nam bên cạnh chiếc piano và đàn violin châu Âu. Trong những cuốn vở chép nhạc có tác phẩm của nhà soạn nhạc Nga Glinka…

Theo bà Shchepkina-Kupernik, trên giá vẽ có bức phác thảo chưa hoàn thành và hàng chục bức tranh, cho thấy trong con người bé nhỏ Hàm Nghi ẩn chứa tâm hồn một họa sĩ lớn.

“Ngài không triển lãm tranh của mình ở Paris là tội lỗi lớn lắm đấy!” — người phụ nữ Pháp đi cùng với nữ văn sĩ Nga đến thăm vua Hàm Nghi nói. “Tôi nghĩ rằng sẽ là tội lỗi, nếu trưng bày những bức tranh của tôi ở Paris,” — vị Hoàng đế bị người Pháp ông tước đoạt ngôi báu và quê hương trả lời.

Và khi nữ nhà văn Nga chú ý đến những bông hoa phóng khoáng nở trong vườn, không có hàng rào và bồn hoa, vua Hàm Nghi cho biết: “Tôi không hạn chế những bông hoa của tôi. Hãy để cho chúng được tự do.”

“Tôi rất hiểu ý nghĩa thực sự của những lời này — nữ văn sĩ Shchepkina-Kupernik nói. Vua Hàm Nghi mỉm cười — và nụ cười ấy mang chứa nỗi đau đớn lớn hơn nước mắt. Bởi vì góc nhỏ Algeria này, ngôi biệt thự này dường như được tạo ra cho hạnh phúc, cho niềm vui, cho cuộc sống. Nhưng khi tôi nhìn vào đôi mắt người chủ góc thiên đường này, tôi đọc thấy nỗi sầu cố quốc lớn lao. Đối với ông, xa quê hương có nghĩa là không có mặt trời và không hề có niềm vui.”

Theo Alexei Synnerberg/Spunik

Câu chuyện về Long Mỹ Quận Công Nguyễn Hữu Hào

Một buổi chiều ở Đà Lạt chúng tôi viếng thăm lăng mộ ông bà Nguyễn Hữu Hào, nằm trên một đồi thông rất đẹp, dễ tìm thấy bằng bản đồ Google. Theo các tài liệu thì đây là nơi chôn và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình, song thân của Nam Phương Hoàng Hậu.














 

Nhà lăng mộ
Từ lối vào có 4 trụ biểu, chúng tôi theo những bậc cấp lên cao dần. Nắng chiều còn rỡ tươi và quang cảnh bên dưới không mang vẻ u tịch của một khu lăng mộ nhưng càng lên cao, chúng tôi cảm nhận được sự quạnh hiu, hoang tàn, lạnh lẽo nơi này. Mọi thứ đơn sơ từ tượng 2 con sư tử đá cho đến nhà bia, mộ… Trên một sân rộng có một tấm bia đá khắc chữ Hán. Trên mái ngói lăng mộ chính giữa có cây thập giá. Bên trong có 2 ngôi mộ bằng đá, hình chữ nhật. Một hương án giữa hai ngôi mộ. Phía sau có một cửa vuông rộng nhìn ra nhà bia nhỏ có tấm bia bằng đá, trên khắc chữ Hán.

Cho đến khi đọc cuốn sách “Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại”(1) của hai tác giả Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thuý tôi thấy khá nhiều thông tin mới, khác với những thông tin trong các tài liệu cũ.

Theo lời nhà xuất bản thì hai tác giả đã ròng rã suốt 3 năm trời thực hiện nhiều chuyến đi đến những nơi lưu dấu của Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương ở Việt Nam như: Sài Gòn, Tiền Giang, Thủ Đức, Chợ Lớn, Biên Hòa, Đà Lạt, Kon Tum, Quy Nhơn, Huế, Hà Nội… cùng những chuyến đi ở Pháp, đến những nơi nhà Vua, Hoàng hậu đã đi qua, sinh sống để tìm tư liệu, gặp nhân chứng và hậu duệ của những người cùng thời, phỏng vấn nhiều nhân chứng trong và ngoài nước… Tôi trích một phần nhỏ nói về lăng mộ ông Nguyễn Hữu Hào, đối chiếu với những thông tin trên mạng.















Trụ biểu dẫn lên lăng mộ
Long Mỹ Quận công

Theo Wikipedia, ông Nguyễn Hữu Hào vốn là một đại điền chủ giàu có, quê quán tại Gò Công (nay thuộc phường Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức). Ông kết hôn với bà Lê Thị Bình, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu có nhất Việt Nam thời bấy giờ.

Thì trong sách, phần về Long Mỹ Quận công (trang 211):

“Ông Pierre Nguyễn Hữu Hào, thân phụ Hoàng hậu Nam Phương là người sống rất kín đáo, không phô trương, nên không ai biết nhiều về nguồn gốc gia đình ông. Nhờ gia đình rất mộ đạo, có hai người anh chị đang là tu sĩ, nên Pierre Nguyễn Hữu Hào được Giám mục Mossard, lúc đó phụ trách Giáo xứ Tân Định, biết đến và giúp vào học tại Tiểu Chúng viện Sài Gòn, nơi Giám mục Mossard từng giảng dạy. Học xong tại Tiểu Chủng viện, Pierre Nguyễn Hữu Hào lại được giới thiệu vào làm việc cho gia đình Lê Phát Đạt rồi may mắn chiếm được cảm tình của cô Marie Lê Thị Bình, thứ nữ của gia chủ. Ông Lê Phát Đạt mất năm 1900, lễ cưới giữa Pierre Nguyễn Hữu Hào và Marie Lê Thị Bình được cử hành hai năm sau đó.

Theo tờ khai kết hôn lập tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12-11-1902 thì Pierre Nguyễn Hữu Hào, 32 tuổi, sinh ngày 1-7-1870 tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn, nghề nghiệp: giáo viên tại trường Taberd, cư ngụ tại Sài Gòn, con của Nguyễn Văn Cường và Lê Thị Thương, cả hai đều đã mất; Marie Lê Thị Bình, 23 tuổi, sinh ngày 17-2-1879 tại Sài Gòn, cư ngụ tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn, con của Philippe Lê Phát Đạt (mất) và Agnès Huỳnh Thị Tài, nghiệp chủ, cư ngụ tại xã tân Hòa, Chợ Lớn, hiện có mặt….


















Đường lên khu lăng mộ
Sau khi cưới con gái nhà Huyện Sỹ Lê Phát Đạt, với sự giúp đỡ của gia đình nhà vợ và với khả năng kinh doanh của mình. Ông Pierre Nguyễn Hữu Hào trong vòng hơn 10 năm từ hai bàn tay trắng đã tích lũy được một tài sản khá lớn”.

Ông có hai người con gái là Marie Agnès Nguyễn Hữu Hào, tên Việt Nam là Nguyễn Thị Hương, sinh ngày 13-8-1903 và Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, tên Việt là Nguyễn Thị Lan, sinh ngày 14-11-1913 (sau này là Nam Phương Hoàng hậu). Cuốn sách giải thích khá chi tiết về ngày sinh và tên thật của Nam Phương Hoàng hậu với những phân tích khá thú vị khác với tất cả các tài liệu xưa nay: tên của hoàng hậu là Nguyễn Hữu Thị Lan và ngày sinh là 4-12-1914.

“Từ khi cô Mariette Nguyễn Thị Lan lên ngôi hoàng hậu, ông Pierre Nguyễn Hữu Hào nghiễm nhiên trở thành Quốc trượng – cha vợ của vua – được sự kính trọng của các giới chức trong chính quyền Pháp và Nam. Tuy vậy, ông vẫn giữ một nếp sống khiêm tốn và kín đáo.

Tháng 5-1935, triều đình cử Thượng thơ Bửu Thạch, Đại Nội Nghi lễ Đại thần, Khâm mạng Hoàng đế, cùng với thương tá Ngự tiền Văn phòng và hai quan chức Bộ Lễ lên Đà Lạt làm lễ phong tước Long Mỹ Hầu, cùng lúc trao huân chương Long bội tinh đệ tam đẳng cho Quốc trượng Nguyễn Hữu Hào. Nhân dịp này, bà Nguyễn Hữu Hào cũng được phong tước Mệnh phụ Nhị phẩm Phu nhân…














 

Lăng mộ và nhà bia
Tháng 6-1937, có tin Long Mỹ Hầu Nguyễn Hữu Hào lâm bệnh, phải đưa vào Sài Gòn chữa trị. Hoàng hậu Nam Phương từ Đà Lạt về thăm. Khi thấy bệnh tình có vẻ suy giảm, Hoàng hậu trở về Đà Lạt.

Ngày 30-8-1937, Vua Bảo Đại phong tước Long Mỹ Quận công cho ông Nguyễn Hữu Hào, đồng thời bà Nguyễn Hữu Hào cũng được sắc phong Mệnh phụ Đệ nhất Phu nhân. Trong khoảng thời gian này, chính phủ Pháp trao Ngũ đẳng Bắc đẩu bội tinh cho ông Nguyễn Hữu Hào.

Hai tuần sau đó, Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần đêm 13-9-1937 tại Sài Gòn. Pierre-Édouard Biénès, Đổng lý Văn phòng Thống đốc, thay mặt Thống đốc Nam Kỳ Jules Brévié, cùng với Émile Grandjean, Giám đốc Sở Chính trị phủ Toàn quyền, đến viếng linh cữu và chia buồn cùng tang quyến. Sau khi tẩn liệm và cử hành thánh lễ tại Nhà thờ Đức Bà, quan tài được chở lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa đặc biệt.

Lễ an táng được cử hành tại Đà Lạt ngày 19-9-1937.

Theo các tài liệu chính thức, cũng như trong tờ khai kết hôn lập tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12-11-1902 thì Pierre Nguyễn Hữu Hào sinh ngày 1-7-1870 tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn. Như vậy, ông Nguyễn Hữu Hào mất năm 67 tuổi. Tuy nhiên, theo gia phả do gia đình bà Agnès Nguyễn Hữu Hào cung cấp thì năm sinh thật sự của ông Nguyễn Hữu Hào là 1866. Không biết vì lý do gì mà trong giấy tờ chính thức, ông Nguyễn Hữu Hào được khai trẻ đi bốn tuổi. Nhưng khi ông mất, báo chí loan tin đúng với tuổi thật là ông Nguyễn Hữu Hào thọ 71 tuổi”.
















 

Bia ở sân
Lăng Nguyễn Hữu Hào

“Khi ông Pierre Nguyễn Hữu Hào mất, gia đình đã tìm một địa điểm để xây lăng mộ cho ông. Khu đất được chọn là một đồi thông gần thác Cam Ly. Con đường từ chân đồi dẫn lên lăng gồm 158 bậc. Lăng xây theo kiểu kiến trúc Á Đông, mái ngói lưu ly xanh, trong lăng xây hai ngôi mộ lớn bằng đá xanh đặt song song, hình chữ nhật, mặt phẳng, cao khoảng 30 cm. Đứng phía trong nhìn ra, ngôi mộ bên phải chôn hài cốt ông Nguyễn Hữu Hào, ngôi mộ bên trái dành để chôn cất bà Lê Thị Bình sau này. Việc xây cất khởi đầu từ năm 1937, bốn năm sau, năm 1941 thì hoàn tất….

Lễ quy lăng diễn ra tiếp theo đó tại khu lăng mộ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào với sự có mặt của Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, bà Long Mỹ Quận công phu nhân, bà Agnès cùng chồng, Nam tước Pierre Didelot, Tổng Giám mục Antonin Drapier, Khâm sứ Tòa thánh tại Đông Dương, Giám mục Jean Cassaigne, Đại diện Tông tòa Hạt đại diện Tông tòa Sài Gòn; về phía chính quyền bảo hộ có Toàn quyền Georges Catroux và bà Suzanne, Khâm sứ Trung Kỳ Émile Grandjean và một số đông quan chức chính quyền bảo hộ và triều đình Huế…

Hơn 20 năm sau, bà Lê Thị Bình từ trần tại Pháp năm 1964 và được an táng trong nghĩa trang của thị xã Neuilly-sur-Seine, ở ngoại ô Paris. Ngôi mộ bên trái trên khu lăng mộ Đà Lạt vẫn còn để trống. Trên đồi thông bốn bề lộng gió, ông Nguyễn Hữu Hào mãi mãi cô độc”.














 

Hai ngôi mộ