Chân dung vua Gia Long qua miêu tả của người Pháp: Thân thể vô cùng cường tráng, trên mặt có dấu vết riêng chỉ nhà Nguyễn mới có

 Chân dung vua Gia Long qua miêu tả của người Pháp: Thân thể vô cùng cường tráng, trên mặt có dấu vết riêng chỉ nhà Nguyễn mới có

 

Sử sách Việt Nam ít khi mô tả rõ ràng dung mạo các vị quân vương, mà thường dành những ngôn từ ước lệ hoặc khoa trương, như dáng hổ, mặt rồng. “Vua Gia Long da trắng, mắt sáng, chòm râu hoàn toàn bạc và dày hơn râu những người đàn ông khác trong xứ”, Michel Đức tả về dung mạo vị vua đầu triều Nguyễn như vậy.

Đôi nét về tiểu sử vua Gia Long
Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8 tháng 2 năm 1762).


 


Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn. Năm 1792, vua Quang Trung m.ất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh.

Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa. Ngày 1 tháng 2 năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.
Gia Long làm vua được 18 năm (1802-1819), m.ất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi m.ất, bài vị vua Gia Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ. Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái).


Ghi chép của một người Pháp về vua Gia Long

Trong bộ chính sử của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục, tả về vua Gia Long, chỉ viết về tính cách của ông mà thôi: “Vua chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rỗi. Sai Thị thư viện sung chức khởi cư chú (chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua), phàm vua làm công việc gì đều chép hết”.

Rất may, qua ghi chép của những người nước ngoài, như trong sách Souvenirs du Huế (Kỷ niệm ở Huế) của Michel Đức Chaigneau xuất bản tại Pháp năm 1867, đã để lại những dòng mô tả rất chi tiết về chân dung vua Gia Long.

Michel Đức là con trai của Jean-Baptiste Chaigneau, người theo phò vua Gia Long từ lúc còn tranh đấu với nhà Tây Sơn và sau khi thành công, đã làm quan trong triều đình nhà Nguyễn đến tận năm 1824 mới về Pháp. Michel Đức sinh tại Huế năm 1803, chỉ một năm sau khi vua Gia Long lên ngôi.

Tranh vẽ vua Gia Long

Chuyện về ba chòm râu của các vua Gia Long

Do cha làm võ quan nên Michel Đức thường xuyên được theo cha vào cung và nhiều lần gặp gỡ vua Gia Long. “Vua Gia Long cao trên trung bình, thân thể cường tráng, tướng đạo mạo đáng kính tương xứng với tầm vóc, nét mặt đầy trang nghiêm và có sắc diện, chứng tỏ một tâm hồn cao đẹp; dáng điệu rất sang trọng và tính tình rất hòa nhã, nhất là trong lúc trò chuyện thân mật”. Michel Đức viết.

Với miêu tả chi tiết của Michel Đức về nét mặt vua Gia Long, chúng ta mới biết hai bên má của nhà vua có hai hột cơm đen đều mọc râu, tạo thành hai chòm râu nhỏ hai bên, cạnh chòm râu lớn ở chính giữa, nhưng không hoàn toàn pha trộn vào nhau.

Đặc biệt, tác giả này cũng cho biết là vua Minh Mạng cũng có hai nốt ruồi đúng chỗ như vậy, người ta bảo rằng đó là dấu vết riêng của nhà Nguyễn. Về tính cách, vua Gia Long còn được miêu tả là “ngoài những lúc bàn luận nghiêm chỉnh, ông là người vui tính nhất và dễ thương nhất trong triều; trong chỗ thân mật, đôi khi ông thích nói tục khiến mọi người phải đỏ mặt”.


Tranh vẽ Nguyễn Ánh giao Nguyễn Phúc Cảnh cho Bá Đa Lộc lên đường sang Pháp năm 1783.

Y phục đen của chúa Nguyễn Ánh trước khi lên ngôi vương

Còn trong ghi chép của một thủy thủ Nhật Bản bị đắm tàu rồi được chúa Nguyễn Ánh cứu năm 1795 là Shihoken Seishi, khi về nước, đã tả lại chi tiết câu chuyện ở xứ Đàng Trong trong sách của mình, trong đó cũng mô tả khá kỹ về lần được chúa Nguyễn Ánh tiếp kiến ở thành Gia Định. Đoạn trích này đã được các học giả của Viện Viễn đông Bác cổ dịch đăng trong tập san của viện (BEFEO) năm 1933:

“Nhà vua hiện ra trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm vàng bạc và dát ngọc ở giữa chính điện. Hai hoàng tử ngồi hai bên. Vua trạc bốn mươi tuổi, mặc áo gấm đen thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng. Một người hầu cận cầm kiếm của vua đứng sau lưng”.

Hoàng thượng đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần vua, đều mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay tê giác. Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử.

Vua Gia Long trong sách giáo khoa thời VNCH
Không chỉ nhấn mạnh việc y phục màu đen chỉ dành riêng cho vua và hoàng tử, tác giả người Nhật này còn khẳng định “trừ vua, không ai được thắt khăn lưng trắng”. Shihoken Seishi cũng tả cảnh chúa Nguyễn Ánh đi ra ngoài đường, luôn có người che lọng đi theo. Những người đi trước và sau ngài đều đội khăn lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, đi thành hai hàng, mỗi hàng một chục người.

Về đồ dùng của chúa Nguyễn Ánh, luôn có người mang theo cho ông một hộp bằng bạc đựng đồ hút, một ống điếu, một hộp thuốc, một thanh gươm chuôi chạm trổ vàng bạc, và nhiều vật dụng nhỏ khác, mỗi vật một người cầm riêng.